Bài thơ "Chính Khí Ca" Văn_Thiên_Tường

Bài thơ "Chính khí ca" là một áng văn tuyệt tác, một tác phẩm nổi tiếng của Văn Thiên Tường, ca ngợi lòng yêu nước và chí khí lẫm liệt của những con người ngay thẳng cương trực, trung nghĩa thời xưa.

Tư tưởng "Chính khí ca" đã được truyền tụng rộng khắp vào Việt Nam nhằm khích lệ cổ vũ lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của các con dân và sỹ phu nước Việt.

Năm 1882, sau khi thành Hà Nội thất thủ,ở Việt Nam cũng xuất hiện "Hà Thành chính khí ca", ca ngợi tinh thần yêu nước và chí khí trung nghĩa lẫm liệt của Tổng đốc Hoàng Diệu người đã quyết tử để bảo vệ thành Hà Nội.

CHÍNH KHÍ CA (正 氣 歌)

(Bản gốc chữ Hán và phiên âm Hán-Việt):

1. 天 地 有 正 氣Thiên địa hữu chính khí [2],雜 然 賦 流 形Tạp nhiên phú lưu hình,下 則 為 河 嶽Hạ tắc vi hà nhạc,上 則 為 日 星Thượng tắc vi nhật tinh.5. :於 人 曰 浩 然Ư nhân viết hạo nhiên [3].沛 乎 塞 蒼 冥Phái hồ tắc thương minh;皇 路 當 清 夷Hoàng lộ [4] đương thanh di [5],含 和 吐 明 庭Hàm hòa thổ minh đình [6];時 窮 節 乃 見Thời cùng tiết nãi hiện,10. 一 一 垂 丹 青Nhất nhất thùy đan thanh [7]在 齊 太 史 簡Tại Tề Thái Sử [8] giản,在 晉 董 狐 筆Tại Tấn Đổng Hồ [9] bút;在 秦 張 良 椎Tại Tần Trương Lương chùy [10]在 漢 蘇 武 節Tại Hán Tô Vũ tiết [11]15. 為 嚴 將 軍 頭Vi Nghiêm tướng quân đầu [12]為 嵇 侍 中 血Vi Kê Thị Trung huyết,為 張 睢 陽 齒Vi Trương Tuy Dương xỉ [13]為 顏 常 山 舌Vi Nhan Thường Sơn thiệt [14]或 為 遼 東 帽Hoặc vi Liêu Đông mạo,20. 清 操 厲 冰 雪Thanh tháo lệ băng tuyết,或 為 出 師 表Hoặc vi xuất sư biểu [15]鬼 神 泣 壯 烈Quỷ thần khấp tráng liệt,或 為 渡 江 楫Hoặc vi độ giang tiếp [16],慷 慨 吞 胡 羯Khảng khái thôn Hồ Yết [17]25. 或 為 擊 賊 笏Hoặc vi kích tặc hốt [18],逆 豎 頭 破 裂Nghịch thụ đầu phá liệt.是 氣 所 磅 礡Thị khí sở bàng bạc,凜 冽 萬 古 存Lẫm liệt vạn cổ tồn當 其 貫 日 月Đương kỳ quán nhật nguyệt30. 生 死 安 足 論Sinh tử an túc luận.地 維 賴 以 立Địa duy lại dĩ lập [19]天 柱 賴 以 尊Thiên trụ lại dĩ tôn [20]三 綱 實 繫 命Tam cương [21] thực hệ mệnh,道 義 為 之 根Đạo nghĩa vi chi căn.35. 嗟 予 遘 陽 九Ta ! Dư cấu dương cửu [22]隸 也 實 不 力Lệ dã thực bất lực;所 囚 纓 其 冠Sở tù anh kỳ quán [23]傳 車 送 窮 北Truyền xa tống cùng bắc,鼎 鑊 甘 如 飴Đỉnh hoạch cam như di,40. 求 之 不 可 得Cầu chi bất khả đắc;陰 房 闃 鬼 火Âm phòng khuých quỷ hỏa,春 院 閟 天 黑Xuân viện bí thiên hắc,牛 驥 同 一 皂Ngưu ký đồng nhất tạo [24]雞 栖 鳳 凰 食Kê thê phụng hoàng thực [25]45. 一 朝 蒙 霧 露Nhất triêu mông vụ lộ,分 作 溝 中 瘠Phận tác câu trung tích,如 此 再 寒 暑Như thử tái hàn thử,百 沴 自 辟 易Bách lệ tự tịch dịch.哀 哉 沮 洳 場Ai tai ! Tự như trường,50. 為 我 安 樂 國Vi ngã an lạc quốc;豈 有 他 繆 巧Khởi hữu tha mậu xảo,陰 陽 不 能 賊Âm dương bất năng tặc;顧 此 耿 耿 在Cố thử cảnh cảnh tại.仰 視 浮 雲 白Ngưỡng thị phù vân bạch [26].悠 悠 我 心 憂55. Du du ngã tâm ưu,蒼 天 曷 有 極Thương thiên hạt hữu cực,哲 人 日 已 遠Triết nhân [27] nhật dĩ viễn,典 刑 在 夙 昔Điển hình tại túc tích;風 簷 展 書 讀Phong thiềm triển thư độc,60. 古 道 照 顏 色Cổ đạo [28] chiếu nhan sắc.

Bản dịch của Thái Trọng Lai (mấy khổ đầu) [29]:

1• Trong trời đất có đầy chính khí,• Xen lẫn vào mọi mặt sẵn dòng.• Dưới này là núi, là sông,• Trên kia sao sáng cùng ông mặt trời.5• Là hạo nhiên khi người nhận nó,• Khí ứ tràn nghẽn cả đất trời.• Nước nhà yên ả, thảnh thơi,• Khí hòa vũ trụ trút nơi triều đình.• Khi vận nước ngửa nghiêng, cùng quẫn,10• Khí phả vào, danh rạng sử xanh.


Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê (mấy khổ đầu):

1-Trời đất có chính khíLẫn lộn trong các hìnhDưới đất là sông núiTrên trời là nhật, tinh.5-Tại người là hạo nhiênVũ trụ đầy anh linhKhí hoà nhả trước sânNon nước lúc thanh bìnhThời cùng cao tiết hiện10-Nhất nhất ghi sử xanh.


Bản dịch (của Hoàng Tạo):

1- Trời đất có chính khíToả ra cho muôn loàiLà sông núi dưới đấtLà trăng sao trên trời5- Đầy rẫy cả vũ trụKhí hạo nhiên của ngườiGặp cảnh đời bình trịTriều thịnh vang lời vuiKhi cùng, tiết tháo rõ10- Sử xanh ghi đời đời.Ở Tề, sách Thái SửỞ Tấn, bút Đổng HồỞ Tần, chuỳ Bác LãngỞ Hán, cờ họ Tô15- Đầu Nghiêm thách trước giặcMáu Kê trên áo vuaRăng Trương công chửi địchLưỡi Kiều Khanh mắng thù.Hoặc là mũ Liêu Đông20- Vẻ băng tuyết phau phauHoặc là biểu “Ra quân”Lẫm liệt quỷ thần sầuHoặc qua sông gõ nhịpKhảng khái nuốt quân Hồ25- Hoặc giật hốt đánh giắcPhường tiếm nghịch toang đầu.Khi ấy tràn ngập tớiOai nghiêm muôn thuở cònKhi đã vượt nhật nguyệt30- Sống thác chuyện con con!Khuôn đất nhờ đó vữngCột trời nhờ đó cònBa giường được gìn giữĐạo nghĩa có gốc nguồn.35- Xót ta gặp vận áchTướng sĩ thực hèn nhátDải mũ buộc thân tùXe chở lên cực bắcNinh nấu cũng cam lòng40- Còn để ta mong mãiPhòng sâu ma lập loèViện xuân thành ngục tối!Ngựa giỏi nhốt cùng trâuChuồng gà, phượng nhặt thóc45- Thân này khi gió sươngĐành rãnh ngòi lăn lócThế mà hai năm quaTránh xa bao khí độcThương ôi! Chỗ lội lầm!50- Lại sống yên tối sớmPhải đâu khôn khéo gìÂm dương không dám phạmVằng vặc tấm cô trungNgẩng nhìn mây trắng nổi55- Buồn thay! Nỗi lòng taTrời xanh cao vòi vọi!Thánh hiền khuất lâu rồiKhuôn phép vẫn không mấtHiên gió mở sách coi60- Gương xưa soi trước mặt.


Phạm Trọng Cảnh[30] '''dịch nôm:'''

Trong trời đất có cái chính khí,Tỏa sáng ra cho tất cả mọi loài hữu hình.Tràn tuôn mặt đất từ sông đến núi và trên trời sáng chói trăng sao.Là khí hạo nhiên của con người.Khi non nước thanh bình thịnh trị,Từ trong triều đến dân gian đều vang lời vui vẻ, an lạc.Gặp lúc cùng khốn thì tiết tháo can trường tỏ ra,Được sử xanh lưu truyền muôn đời.Ở nước Tề thời Chiến Quốc, Thôi Tử giết vua quan Thái Sử chép việc mà không sợ uy quyền.Ở Tấn, quan Tể Tướng Triệu Thuẩn bỏ trốn khi vua bị giết,Đổng Hồ chép sự thật kết án Triệu Thuẩn không làm tròn trách nhiệm là giết vua.Nước Tần, Trương Lương muốn báo thù cho nước Hàn một mình mang chùy đánh vua Tần Thủy Hoàng.Tại nhà Hán, Tô Vũ đi sứ bị Hung Nô bắt giam 18 năm.Trương Phi đánh Ba Thục bắt được tướng Nghiêm Nhan,Nhan không chịu đầu hàng nói: nước Thục chỉ có tướng đứt đầu chứ không có tướng đầu hàng.Vua Tấn Hoài Đế bị giặc đuổi,Kê Thị Trung tức Kê Thiệu, lấy thân mình che chỡ vua, bị tên bắn máu tung đỏ cả áo long bào nhà vua.Đời Đường An Lộc Sơn làm phản,Trương Thư Dương tức Trương Tuần đánh giặc thua trận bị bắt,Mắng giặc luôn miệng bị giặc bẽ gãy hai cái răng.Nhan Kiều Khanh tức Nhan Thường Sơn bị giặc bắtMắng chưỡi luôn miệng, giặc cắt lưỡi vẫn tiếp tục chửi mãi không thôi.Quảng Minh đời Hán được vua mời ra làm quan,Không chịu, cứ ở mãi Liêu Đông ba mươi năm đội nón lá mặc áo vải bố.Khổng Minh dâng biểu xin vua xuất quân đánh Ngụy, lời lẫm liệt oai hùng.Tổ Địch qua sông đánh giặcBẻ gảy mái chèo thề không dẹp giặc xong không qua sông này.Đoàn Tú Thực giận Châu Xế chiếm ngôi vua cầm hốt (vật bằng ngọc các quan cầm cho oai nghi),Đánh vào đầu Xế máu ra lai láng.Cái linh khí ấy tràn ngập muôn thuở,Sáng rực cả trần ai, tỏ rõ cả trăng sao.Khí thiên anh hùng, xem nhẹ cái chết tựa lông hồng.Nó làm cho khuôn đất nhờ đó mà vững vàng,Cột chống trời nhờ đó mà còn.Tam cương được gìn giữ. Đạo nghĩa có được nguồn gốc.Xót vì ta gặp vận chẳng may,Tướng sĩ hèn nhát, cho nên ta bị bắt làm tù nhân.Xe chở lên Bắc Kinh, dù ninh nấu ta trong vạc dầu sôi ta cũng coi như sương.Trong ngục tù không thấy ánh mặt trời, phòng giam tối đen lập lòe như lửa ma.Như ngựa quý sống cùng trâu bò (Văn Thiên Tường sống cùng bốn người lính).Như phượng hoàng ăn thóc chung cùng đàn gà.Gió lạnh sương mù, trong không khí ẩm thấp,Ta thường nghĩ sắp chết đến nơi,vậy mà trọn hai năm, bệnh tật hoài công lãng vãng chung quanh.Riết rồi ta cũng thấy cái nền ngục ẩm thấp hôi hám này là cảnh thiên đường lạc quốc.Vì thế ta vững được ý chí,Ngắm mây trắng trôi trên đầuMà lòng buồn mênh mông như vòm trời vậy.Thánh hiền nay đã xa, tinh hoa vẫn còn đó.Trước hiên gió lộng mở sách đọc.Gương xưa vẫn soi sáng trước mặt.


Bản dịch (Nguyễn Văn Thọ):[31]

1. Anh hoa chính khí đất trờiKhoác hình vật chất khắp nơi vẫy vùng.Tràn mặt đất tuôn sông kết núi,Vút trời mây chói lói trăng sao5. Trần ai lẩn bóng anh hào,Muôn ngàn khí phách rạt rào tầng xanh.Thuở non nước thanh bình khắp chốn,Nét đan thanh chóng lộn bệ rồng.Sơn hà gặp buổi lao lung,10. Càng cao tiết ngọc, càng bừng vẻ son.☸Tề Thái Sử mất còn mấy độ,[32]Thẻ tre kia há sợ gươm ai.Đổng Hồ múa bút mấy hồi,Làm cho Tấn tặc tơi bời ruột gan[33]15. Trương Lương xót nỗi Hàn khói lửa,Dùi đồng vung, nghiêng ngửa Tần vương.[34]Ngọn cờ Tô Vũ phong sương,Càng băng giá cảnh, càng hương sắc lòng[35]Đầu Nghiêm tướng dường đồng, dường thép,[36]20. Máu Kê quân nhuốm hết long bào.[37]Trương Tuần răng cứng cát sao,Thành đồng đà nát, lòng đào khôn thay.[38]Lưỡi Thường Sơn nào hay lắt léo,[39]Mũ Quảng Minh che nẻo Liêu Đông.[40]25. Xuất sư biểu ấy hào hùng,Ngọc vàng rộn rã nát lòng thần minh.[41]Dòng nước Hiệt lênh đênh bỡ ngỡ,Thề cùng sông: «Tan rợ mới về !» [42]Hốt ngà có lúc cũng ghê,30. Cho đầu soán chúa ê chề tóc tang.[43]Linh khí ấy chứa chan muôn thuở,Rực trần ai, tở mở trăng sao.Khí thiêng đượm máu hùng hào,Phù sinh nhẹ tựa hồng mao sá gì.35. Giây buộc đất nó xe cho vững,Cột chống trời nó dựng cho cao.Cương thường đạo nghĩa trước sau,Mối giường then chốt quán thâu một mình.☸Ta lỡ bước điêu linh tù túng,Vì ba quân lấp lửng ươn hèn.Thân tù dạ lỏng khóa then,Một xe đầy ải, băng miền heo may.Đời luân lạc tỉnh say mấy độ,Vạc dầu sôi mà ngó như sương.Ngục tù khóa kín ánh dương,Phòng giam trời vắng tối dường than tro.Long câu giữa trâu bò len lỏi,Phượng hoàng kia phận gửi đàn gà[44]Một mai gió lạnh sương mờ,Mấy hồi run rét, xác xơ thân tàn.Cậy tuế nguyệt thổi tan chướng khí,Nhờ dương quang đượm vẻ an khương.Nhớp nhơ là chốn tù trường,Mà ta khinh khoát coi dường Bồng Lai.55. Ta vốn chẳng có tài phép lớn,Nhưng trần ai khôn bận lòng ta.Lòng ta Chính Khí chói lòa,Âm dương điên đảo khôn mờ tấc son.☸Trời lồng lộng mây tuôn sóng bạc,Động lòng sầu man mác trời mây.Biển trời bát ngát chơi vơi,Con thuyền dĩ vãng, bóng người xa xưa.60. Người xưa quá, tinh hoa vẫn đó,Tinh hoa còn rạng rỡ tờ mây.Đạo xưa vầng sáng đâu đây,Linh lung vầng sáng tỏa đầy dung quang.

TƯ TƯỞNG "CHÍNH KHÍ CA"

Bài thơ "Chính khí ca" của Văn Thiên Tường, ca ngợi lòng yêu nước và chí khí lẫm liệt của những con người ngay thẳng cương trực, trung nghĩa thời xưa, đã giữ toàn được cái khí chất lớn lao mạnh mẽ, được gọi là chính khí hạo nhiên của trời đất phú cho bậc đại trượng phu, cho người quân tử... Bài "Chính khí ca" làm chấn động, tỏa sáng cổ kim:

"Trời đất có chính khíToả ra cho muôn loài..."
  • Bài "Chính khí ca" đã được cụ Phan Bội Châu (18671940) dịch, truyền tụng rộng rộng khắp để khích lệ cổ vũ lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của con dân nước Việt.
  • Nhưng cụ Nguyễn Đình Chiểu (18221888) mới là người đầu tiên truyền bá tư tưởng "Chính khí ca" vào Việt Nam qua "Ngư Tiều Vấn Đáp" (từ câu 1350 đến câu 1375) [45], Cụ đã quảng diễn tư tưởng của Văn Thiên Tường bằng tiếng mẹ đẻ: cụ được xem là Văn Thiên Tường Việt Nam vậy.
  • Năm 1882, sau khi thành Hà Nội thất thủ, Ba Giai (Nguyễn Văn Giai) cũng mượn ý của "Chính khí ca" để làm thành bài "Hà Thành chính khí ca" [46] ca ngợi Tổng đốc Hoàng Diệu người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội. Khi thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn để không rơi vào tay giặc, thể hiện tinh thần yêu nước và chí khí trung nghĩa lẫm liệt, thà chết chứ không chịu khuất phục.
Trạng nguyên Giang Tây
Nhà Đường
Vương Quý Hữu (736)  · Lư Triệu (843)  · Dịch Trọng (845)
Ngũ đại
Hà Kiều (?)  · Nhạc Sử (930)  · Vương Khắc Trinh (952)
Nhà Tống
Mã Thích (962)  · Lưu Huy (1059)  · Bành Nhữ Lệ (1065)  · Hà Xương Ngôn (1097)  · Uông Ứng Thần (1135)  · Từ Nguyên Kiệt (1232)  · Trương Uyên Vi (1247)  · Diêu Miễn (1253)  · Văn Thiên Tường (1256)
Nhà Minh
Ngô Bá Tông (1371)  · Chu Thiện (1375)  · Hồ Quảng (1400)  · Tăng Khải (1404)  · Tiêu Thời Trung (1411)  · Trần Tuần (1415)  · Tăng Hạc Linh (1421)  · Lưu Nghiễm (1442)  · Bành Thời (1448)  · Vương Nhất Quỳ (1460)  · Bành Giáo (1464)  · La Luân (1466)  · Trương Thăng (1469)  · Tăng Ngạn (1478)  · Phí Hoành (1487)  · Thư Phân (1517)  · La Hồng Tiến (1529)  · Lưu Đồng Thăng (1637)
Nhà Thanh
Đái Cù Hanh (1778)  · Uông Minh Tương (1833)  · Lưu Dịch (1835)  · Lưu Phúc Diêu (1892)